Hàng năm cứ vào độ trăng tròn tháng 7 âm lịch thì người dân nhiều nước châu Á cũng như Việt Nam đều vui mừng háo hức đón lễ Vu Lan. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, ngày tết báo hiếu này vẫn luôn là một nét đẹp quý báu trong đời sống văn hoá và tinh thần của mỗi người dân đất Việt. Nó thể hiện sức ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta. Tuy là một ngày lễ hết sức quan trọng, nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc và hiều hết ý nghĩa của tết Vu Lan. Liệu rằng đây có phải là ngày lễ bắt nguồn từ chính nước Việt ta hay được du nhập từ bên ngoài vào ?
Mục Lục
Đạo hiếu luôn là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam
Xưa nay trong văn hóa người Việt đạo hiếu luôn rất được coi trọng. Với cha mẹ thì luôn lấy sự thành đạt của con cái làm niềm vui. Còn con cái, nếu biết giữ gìn nền nếp gia phong, kính trên nhường dưới, chăm ngoan học hành là một cách để thể hiện sự hiếu hạnh với cha mẹ.
Chính vì thế, chữ hiếu luôn có sẵn trong tâm thức của mỗi người Việt Nam. Dù cuộc sống có thay đổi, phải đối mặt với nhiều vấn đề của nhịp sống hiện đại nhưng đạo làm con thì không thay đổi. Vì thế mà có câu ca dao :
“Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha
Nước biển mệnh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín tình cha”
Ý nghĩa của tên gọi Vu Lan
Trong Hán ngữ, Vu Lan Bồn (盂蘭盆) có 3 nghĩa: lễ cúng dường, cầu siêu cho người đã mất; số tiền quyên góp dùng để cứu vong hồn người chết và là vật dụng cổ xưa làm bằng tre để đo khí hậu.
Vu Lan (盂蘭) trong Hán ngữ có nghĩa là đảo huyền (treo ngược), còn bồn (盆) là một dụng cụ đựng thức ăn (theo cách hiểu thời nhà Đường), đến triều đại nhà Tống thì “bồn” được phát triển thành vật hiến tế tổ tiên và vua chúa trong Lễ hội Trung Nguyên. Thông thường, “bồn” là một vật chứa hình cái chậu, làm bằng những thanh tre, nứa, cao ba thước ba tấc, có ba chân bằng cọc tre, dùng để đựng tiền giấy và các đồ vật khác, gọi chung là “Vu Lan bồn”. Sau các nghi thức tế lễ, người ta sẽ đốt loại bồn này.
Ở Ấn Độ, khi Đức Phật còn tại thế, người ta thường thực hiện nghi lễ cúng dường Đức Phật và chư Tăng để cầu siêu cho người thân đã khuất, mong họ được siêu sanh tịnh độ, ngoài ra họ còn lập đàn cúng cô hồn, quỷ đói, cầu nguyện cho những vong hồn sớm giải thoát mọi khổ đau để an nhiên về cõi Phật. Sau khi lễ này du nhập vào Trung Hoa, Lương Vũ Đế là vị vua đầu tiên cúng Vu Lan Bồn vào năm 538 tại chùa Đồng Thái, tỉnh Giang Tô. Kể từ đó lễ này được truyền khắp Trung Hoa.
Nguồn gốc ngày lễ Vu Lan trong văn hoá người Việt
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, lễ Vu Lan bồn du nhập vào nước ta rất sớm. Từ năm 1072, vua Lý Nhân Tông đã từng thiết trai đàn cầu siêu cho cha mẹ. Thế rồi, qua thời gian, Vu Lan bồn dần dần trở thành đại lễ cho đến ngày nay. Đây là lễ để con cháu tỏ lòng tôn kính, báo hiếu cha mẹ còn sống hay đã qua đời, kể cả ông bà 7 đời. Trong ngày lễ Vu Lan, ngoài ý nghĩa cầu siêu, người Việt Nam còn tổ chức nghi thức Bông hồng cài áo để tưởng nhớ những người mẹ đã khuất và tỏ lòng biết ơn các bà mẹ còn tại thế với con cháu.
Nghi thức này có nguồn gốc từ đoản văn Bông hồng cài áo (1962) của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ lấy ý từ đoản văn này để sáng tác ca khúc bất hủ Bông hồng cài áo thường được sử dụng trong ngày lễ Vu Lan – một nghi lễ phổ biến trong cộng đồng người Việt trên khắp thế giới, đặc biệt là ở Thái Lan.
Hằng năm, lễ Vu Lan thường được tổ chức luân phiên tại những ngôi chùa Việt Nam, phổ biến nhất là tại chùa Quảng Phước (Wat Anamnikayaram) và chùa Cảnh Phước (Wat Samananam Borihan) tại Bangkok, Thái Lan.
Lễ Vu Lan cũng được tổ chức ở nhiều nước châu Á
Tại Nhật Bản
Ở Nhật Bản, có một nghi lễ tương tự Vu Lan gọi là Obon, hoặc đơn giản là Bon, tồn tại hơn 500 năm qua. Đây cũng là lễ cúng người đã khuất, về sau biến đổi thành một kỳ nghỉ đoàn tụ gia đình, những người từ các thành phố lớn sẽ trở về quê, thăm hỏi, vui chơi với nhau và dọn dẹp nơi an nghỉ của tổ tiên họ.
Theo truyền thống, trong lễ này bao gồm cả khiêu vũ được gọi là Bon Odori. Lễ Obon thường được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 ở phần phía Đông (Kantō). Còn ở phần phía Tây (Kansai) là vào ngày 15 tháng 8. Ở Okinawa và quần đảo Amami thì lễ này được tổ chức như ở Trung Quốc. Tức là vào ngày 15 tháng 7 âm lịch.
Lễ Vu Lan của người Khmer
Người Khmer có lễ hội tôn giáo gọi là “Ngày của Tổ tiên” (Pchum Ben: ភ្ជុំបិណ្ឌ), kéo dài 15 ngày. Đỉnh cao là lễ kỷ niệm vào ngày 15 tháng 10 trong lịch Khmer; vào cuối của Mùa Chay Phật giáo Vassa. Đây là thời điểm mà nhiều người Campuchia bày tỏ lòng kính trọng đối với những người thân đã qua đời lên đến 7 thế hệ.
Tại Ấn Độ và Indonesia
Ở Ấn Độ có lễ Pitru Paksha của người theo đạo Hindu. Lễ này sẽ do người nam trong gia đình hành lễ (được coi là bắt buộc). Điều này để đảm bảo rằng linh hồn của tổ tiên được lên thiên đàng. Kinh thánh Markandeya Purana nói rằng nếu tổ tiên bằng lòng với lời cầu nguyện; họ sẽ ban tặng sức khỏe, sự giàu có, kiến thức, tuổi thọ cho gia đình đó. Cuối cùng, khi chết đi người hành lễ sẽ được lên thiên đường và nhận được sự cứu rỗi (moksha).
Tương tự lễ Vu Lan, Hari Raya Galungan là ngày lễ cúng tổ tiên ở Bali. Đó cũng là ngày lễ tại một số vùng của Indonesia. Ngoài ra, tại đất nước này còn có những nghi lễ tương tự khác kéo dài hơn 2 tuần. Chúng được thực hiện bằng hình thức cúng thức ăn và lễ vật tôn giáo. Nhìn chung, những ngày lễ này tổ chức theo lịch pawukon của người Bali. Nó thường diễn ra sau mỗi 210 ngày. Ở Hồng Kông và Ma Cao còn có tục đốt quần áo trên đường phố. Tục này điễn ra từ mùng 1 đến 14 tháng 7 âm lịch. Tục này cũng giống như tục đốt vàng mã cúng người đã mất tại Việt Nam.