Đồng Tháp Mười và những câu chuyện về nguồn gốc tên gọi

Đồng Tháp Mười có lẽ một địa danh vừa quen thuộc nhưng cũng vừa lạ đối với nhiều người dân Việt Nam. Quen là bởi địa danh này đã từng được nhắc đến trong câu hát vô cùng quen thuộc “Tháp Mười đẹp nhất bông sen…”. Còn lạ là bởi vùng đất này ít khi được nói tới trong bản đồ du lịch Việt Nam. Đồng Tháp Mười là một nơi sở hữu rất nhiều đặc trưng về sinh thái, cũng như sự đa dạng về hệ động thực vật. Tuy thế, nơi này lại là 1 trong những vùng đất được khai phá sau cùng trong công cuộc mở rộng bờ cõi của cha ông ta khi xưa. Vì thế, vùng đất xa xôi này còn rất nhiều điều thú vị để ta tìm hiểu và khám phá.

Đồng Tháp Mười – vùng đất của những sắc màu

Nói đến những sắc màu đặc trưng của Đồng Tháp thì không thể bỏ qua màu đỏ của trái quýt hồng Lai Vung. Những vườn quýt hồng nối tiếp nhau trải dài cả một vùng rộng lớn đã tạo nên một màu sắc vô cùng hấp dẫn mà không nơi nào có được.

Màu xanh là màu của những cánh đồng lúa, đồng cỏ và những rừng tràm ngập nước nơi đây. Chính màu xanh lá mạ của những bông lúa chưa ngậm đòng, cùng những trảng cỏ xanh tươi quanh năm đã tạo nên nét hoang sơ cho thiên nhiên Đồng Tháp.

Khi nhắc đến Đồng Tháp chắc hẳn không ít người nghĩ ngay đến hình ảnh của bông sen. Với phông nền là màu xanh của lá, những cánh sen nở rộ làm điểm nhấn, những cánh đồng sen mênh mông đã điểm tô cho Đồng Tháp một sắc hồng đầy quyến rũ.

Đồng Tháp Mười từng là vùng đất của Vương quốc Phù Nam xưa

Đồng Tháp Mười từng là vùng đất của Vương quốc Phù Nam xưa
Đồng Tháp Mười từng là vùng đất của Vương quốc Phù Nam xưa

Đồng Tháp Mười là tên gọi của một vùng đất rộng gần 8.000 km2 nằm bên tả ngạn sông Tiền. Nơi này trải rộng trên địa phận 3 tỉnh miền Tây là Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp. Trong đó, phần diện tích trên đất tỉnh Long An chiếm tới quá nửa.

Vùng đất này xa xưa vốn thuộc vương quốc cổ Phù Nam. Đây là một quốc gia cổ đại hùng mạnh ở Đông Nam Á, vào khoảng thế kỷ 1 – 6. Những kết quả nghiên cứu khảo cổ ở khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp) đã tìm thấy nhiều hiện vật thuộc Văn hóa Óc Eo. Đó là các tượng Phật bằng gỗ mù u rất phong phú và đa dạng về kích thước, kiểu dáng. Nó có nhiều mảnh gốm cổ; một số mảnh vỡ của các bệ yoni, tượng thần Vishnu, một số bia ký Phù Nam.

Trong đó, bia ký (được định danh) K5 tìm thấy ở di tích Gò Tháp. Bia này được cho là có niên đại thế kỷ 5. Nội dung trên bia cho biết vùng đầm lầy này được chinh phục bởi vị vua Phù Nam tên Jayavarman. Nhà vua đã giao nơi này cho con trai mình là Gunnavarman cai quản.

Ngoài những di vật gốm, tượng, bia ký cổ xưa; tại khu di tích Gò Tháp, những cuộc khai quật khảo cổ còn làm phát lộ nhiều điều. Đó là nền móng bằng gạch của các công trình lớn và những công trình phụ trợ xung quanh. Quy mô kiến trúc, các di vật khảo cổ cùng với hệ thống đường giao thông thủy trong khu vực di tích Gò Tháp đã cho thấy rằng, rất có thể nơi đây từng là một trung tâm văn hóa – tôn giáo quan trọng của cả một vùng rộng lớn xung quanh nó trong khoảng thời gian cách nay khoảng 15 thế kỷ.

Nguồn gốc của tên gọi Đồng Tháp Mười

Những dẫn chứng trong sử sách

Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức được hoàn thành vào khoảng năm 1820. Đây có lẽ là tài liệu sớm nhất nói về vùng đất này. Tuy nhiên thời điểm đó vùng đất này vẫn chưa có một cái tên cụ thể. Khi đó nó chỉ được nhắc tới với cái tên chung chung là “Chằm ao” và thông qua một số địa danh có liên quan, như “sông Cần Lộ”, “sông Bát Đông”, “sông Bát Chiên”, và đặc biệt “rạch mới sông Tranh” – con kênh đào của viên đô đốc Tây Sơn trong cuộc chiến với nhánh quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân.

Những dẫn chứng trong sử sách
Vùng đất Đồng Tháp Mười lúc xưa vẫn chưa có 1 cái tên cụ thể

Sách dẫn viết: “Rạch mới sông Tranh ở phía tây bắc trấn Định Tường lúc trước có con ngòi nhỏ. Sông tranh ở phía đông, đầu nguồn Ba Lai ở phía tây. Khoảng giữa bùn lầy thấp ướt, cỏ lác hoang vu, cách xa 57 dặm rưỡi. Nơi đây phía nam nhiều gò đống ruộng vườn; phía bắc nhiều rừng sâu chằm lớn kéo dài 5-6 trăm dặm. Đây là chỗ quân tụ nghĩa Đông Sơn tới chiếm Ba Giồng; cậy thế ách hiểm để đi hoành hành các nơi. Còn khi lui tự theo rừng sát, như cọp về rừng sâu, rồng về bể cả; chẳng ai biết được tông tích ở đâu. Quân Tây Sơn hằng bị chúng làm cho nguy khổ, mà cũng không làm sao được.

Chứng tích lịch sử

Năm Ất Tị (1785) đô đốc Trấn của Tây Sơn nhân có ngòi nhỏ ở 2 đầu, đào mở một con sông ngang. Mục đích để cắt đứt chỗ hiểm yếu thành một đường kênh đi tắt. Rất mau lẹ sau đó nơi này có nhiều người qua lại. Việc đào kênh của đô đốc Trấn đã khơi thông con đường thủy từ sông Cai Lậy đến Rạch Chanh của sông Vàm Cỏ Tây; khiến quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân (theo phò Nguyễn Phúc Ánh) bị đóng khung vào một khu vực cố định, không rút được về vùng đầm lầy hay trở xuống vùng dân cư trù phú phía dưới rạch mới.

Con kênh đào này còn phát huy tác dụng mãi về sau này. Nó trở thành con đường vận tải lúa gạo quan trọng từ miệt Hậu Giang lên Vàm Cỏ Đông, Bến Lức để vào Chợ Lớn.

Còn vùng đầm lầy rộng lớn, Gia Định thành thông chí gọi là vùng “Chằm ao”: “Huyện Kiến Đăng từ phía đông đến phía tây tiếp giáp biên giới Cao Miên có nhiều chằm ao hồ đầm, cá trạch dùng ăn không hết. Thường đến tháng 4 – 5 mưa xuống nước tràn thì cá sinh trưởng đầy dẫy ở trong ruộng, trong ao. Phàm những hủng hố có cỏ và nước tuy sâu độ 1 tấc cũng có cá ở đến tháng 10 về sau hết mưa nước rút, cá lại ra sông… Lại có một dãy đất ở bờ bắc Kênh Mới, Tranh Giang; tuy trưng vào hạng điền, nhưng nghề nghiệp thì đào ao nuôi cá bán để nạp thuế. Ấy là nguồn lợi sông chằm tự nhiên vô cùng vậy.”

Vùng đất tháp của người Chân Lạp

Từ xưa cho đến khi Trịnh Hoài Đức viết Gia Định thành thông chí, không có một tên gọi riêng cho vùng này. Cái tên Tháp Mười được nhắc tới lần đầu trong bản tin của Công báo Nam kỳ thuộc Pháp khi nói về cuộc khởi nghĩa của Thiên hộ Dương: “Ngày 17.4.1866 đã chiếm được Tháp Mười”.

Liên quan tới tên gọi Đồng Tháp Mười, có giả thuyết cho rằng cái tên Tháp Mười là do nơi đây có ngọn tháp 10 tầng của người Chân Lạp xưa. Nên vào năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đã cho xây ở Gò Tháp một ngôi tháp 10 tầng. Ngọn tháp cao 42m này có kiến trúc kiểu tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ (Huế). Nó được sử dụng như một đài quan sát toàn vùng Đồng Tháp Mười. Sau đó ngôi tháp này đã bị lực lượng đặc công của Quân giải phóng đánh sập vào ngày 20/12/1959.

Sách Tân An ngày xưa lại đưa ra giả thuyết khác về cái tên Đồng Tháp Mười. “Vì sao có cái tên là Đồng Tháp Mười? Là vì đồng này lấy tên một ngôi chùa cổ, hay gọi là tháp; theo kiến trúc Cao Miên, xây cao mười tầng trên mặt đất.

Đồng Tháp Mười thời kỳ Pháp thuộc

Đồng Tháp Mười thời kỳ Pháp thuộc
Đồng Tháp Mười từng là nơi hoang vu, độc địa

Một điều lạ lùng, gần như kỳ dị, là chung quanh vùng này chẳng có ngọn núi nào cả. Thế mà người xưa kiến trúc được cái tháp bằng đá xanh thật cũng lắm công phu và tài tình. Bởi lẽ xưa kia, sự chuyên chở vô cùng khó khăn. Hơn nữa, vùng Đồng Tháp là một nơi khí hậu hết sức độc địa. Thêm vào đó nơi này có đủ loại thú dữ ăn thịt người.

Sau này lúc Phủ Trần Văn Mẩng làm chủ quận Cao Lãnh; ông đã phúc trình lên thượng cấp về ngọn tháp. Vì thế vào năm 1931, Henry Parmentier, nhà khảo cổ Viễn đông, đã đến tận tháp này nghiên cứu. Parmentier đọc những chữ trên tấm bia đá sứt mẻ vì phong sương tuế nguyệt và tan tác ngổn ngang. Sau đó, ông giải nghĩa rằng đây là cây tháp thứ mười trong số 10 cái tháp của vua nước Thủy Chân Lạp lập hồi xưa. Vì thế mà dân cư gọi cánh đồng bao la có cái tháp thứ 10 ấy là Đồng Tháp Mười”.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *